Tên di sản : Đình Mỹ Xuyên
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 3475/QĐ-UBND
Giới thiệu
Đình làng Mỹ Xuyên là một ngôi đình cổ được xây dựng từ triều Nguyễn Đình được dựng theo hướng Đông Nam toạ lạc trên khu đất rộng, thoáng giữa khu vực cư trú của dân làng. Kiến trúc của ngôi đình nằm trong một khuôn viên khép kín bởi hệ thống tường rào bao quanh.
Quy mô cấu trúc:
Toàn bộ không gian đình hiện tại được phân bố bao gồm sân, nhà tiền đình, hậu cung nằm trên mặt bằng, đất đai được khoanh vùng bảo vệ (thuộc ô thửa 661 với diện tích 1330m2) theo bản đồ địa chính xã Vĩnh Yên, huyện Vĩnh Lộc ký duyệt năm 2001, tờ bản đồ số 3 (do ảnh hưởng của cơn bão số 4 năm 2007 sân nền bị lún, tường rào bị sụp đổ, ��ịa phương đã lát lại nền sân, xây dựng tường rào).
Phía bắc giáp thửa 650, 624
Phía nam giáp đường làng, hồ sen.
Phía đông giáp đường ngõ xóm.
Phía tây giáp ngõ xóm.
Sân đình: Có chiều rộng 11,7m, chiều dài 20,5m, nền lát gạch bát, xung quanh xây tường rào, liền kề sân là đường làng.
Nhà tiền đình:
Nhà tiền đình được đặt theo hướng nam, xây trên nền cao hơn mặt sân là 20cm. Xung quanh bó vỉa gạch riêng bờ hiện được lát bằng những phiến đá xanh to chạy dài hết chiều dài hiên.
Nhà tiền đình được cấu tạo 5 gian, hai dĩ, chiều dài nền đình 17,6m, chiều rộng 8,55m, diện tích là 150,48m2. Trước kia đình được dựng 4 mái, tường hiện để thoáng. Trong thời gian hợp tác xã dùng đình làng làm kho hợp tác xã chứa nguyên vật liệu, nơi hội họp của cả làng nên đã xây tường bao quanh và dựng bộ cửa sắt. Kết cấu kích thước các gian tính từ tây sang đông như sau:
Dĩ đầu hồi tường đốc tây: 0,70m
Gian thứ nhất rộng: 2,74m
Gian thứ hai rộng: 3,08m
Gian thứ ba rộng: 3,67m
Gian thứ tư rộng: 3,23m
Gian thứ năm rộng: 2,74m
Dĩ đầu đốc đông: 0,70m
Cấu trúc ngang thân hình gồm 5 hàng cột, hai hàng cột cái, hai hàng cột quân trước, sau, một hàng cột hiên trước.
Từ giọt mái ngói đến cột hiên: 0,45m
Từ tim cột hiên trước đến tim cột quân trước: 1,67m
Từ tim cột quân trước đến tim một cái trước là: 1,48m
Từ tim một cái đến tim cột cái là: 2,48m
Từ cột cái sau đến cột quân sau là: 1,48m
Từ tim cột quân sau đến tường hậu là: 0,95m
Cột cái có chiều cao là 4,53m, đường kính cột là: 0,42m
Cột quân có chiều cao là 367m, đường kính cột là: 0,37m
Cột hiên đá cao: 1,78m
Rộng: 19cm x 19cm chân tảng cao 28cm
Chân đế tảng rộng 30 đáy 22cm
Kích thước chân tảng cột cái: 0,48m x 0,48m
Kích thước chân tảng cột quân: 0,41m x 0,41m
Như vậy ngôi đình có tổng số 30 cột: 12 cột cái, 12 cột quân bằng gỗ đứng trên hệ thống chân tảng và 6 cột hiên bằng đá xanh.
Các Cột trong ngôi đình này có tỉ lệ đường kính tương ứng với hình dáng của cột cũng có quy định rõ ràng, các cột được tạc theo kiểu “thượng thu hạ thách” các xà, câu đầu, có sự tương ứng với nhau, sự tương ứng giữa xà và cột, giữa câu đầu với cột hợp lý và hài hoà.
Kết cấu vì kèo:
Đình gồm 5 gian, 2 dĩ, 6 vì kèo có kết cấu kiến trúc tương đối cân đối, đối xứng nhau: Gian đầu đối xứng với gian cuối, vì 1 đối xứng với vì 6, vì 2 đối xứng với vì 5, vì 3 đối xứng với vì 2. Từ vì 1 đến vì 6 có kết cấu kiến trúc giống nhau, theo hệ thống giá chiêng chồng rường kẻ hiên trước, bẩy sau có nghĩa là từ quá giang đến thượng lương đình được kết cấu theo kiểu con so chồng trường kẻ chuyền, trên cùng là các con rường chống lên nhau nhưng tỉ lệ ngắn và thu hẹp lại dần theo kết cấu mái, nó được đỡ bằng những đấu trụ vuông vắn. Đầu con rường thứ nhất trên vì nóc ăn mộng vào đầu cột cái, đầu con rường thứ hai ăn mộng vào đầu trụ đứng còn gọi là (trụ quang đèn), để nối hai trụ đứng này là một con rường dài nằm ngang ăn mộng vào đỡ hoành tải của cả hai mái trước và sau (còn gọi là rường bụng lợn).
Như vậy các con rường ngoài chức năng đỡ hoành tải là yếu tố chính trong kết cấu để tạo nên vì kèo của ngôi đình. Trên các con rường này được nghệ nhân thời bấy giờ tạo tác hoa văn trang trí hình hoa cúc cách điệu trong mềm mại, uyển chuyển. Phần dưới xà lòng, xà nách, nối cột cái và cột quân, được kết cấu kiểu kẻ chuyền. Từ cột quân sau ra tường hậu được kết cấu kiểu bẩy sau gác lên tường hậu.
Từ cột quân trước ra cột hiên bằng đá đặt kẻ hoành lồng qua lá dong đặt trên kẻ hiên và bẩy sau. Kẻ hiên này đặt phía trước và hạ lồng qua cột quân trước, đầu nghé này có nhiệm vụ đỡ con ngang nối giữa đầu cột quân và xà hạ ra cột hiên hàng bẩy sau đặt trên tường hậu làm chỗ đứng vững cùng bức tường hậu đỡ toàn bộ lực mái ngói sau. Toàn bộ rui, mè, hoành tải, đều được làm bằng gỗ, xà thượng, xà hà, xà thế hoành đều được làm bằng gỗ có hình dáng vuông vắn được hai gờ chỉ. Bộ mái lợp ngói mũi hài với nhiều loại ngói khác nhau, chứng tỏ ngôi đình đã được dân làng trùng tu nhiều lần.
Nghệ thuật chạm khắc tập trung ở 6 bộ vì kèo, xà lòng, xà nách kẻ bẩy, kẻ chuyền, kẻ hiên, bức đại tự. Là những phần kiến trúc quan trọng nhất của Công trình, do vị trí phô diễn và có tác dụng chịu lực (lực nén trọng lượng của mái nhà, lực giằng để liên kết các bộ phận khung nhà).
Đình làng là chốn linh thiêng, thờ vị thành hoàng làng, vì vậy các đề tài trang trí ở đây mang tính chất truyền thông thể hiện tinh thần đó là đề tài long, ly, quy, phượng, được sử dụng vào chạm khắc trang trí, chiếm vị trí chỉ đạo trong công trình. Sáu bộ vì kèo chạm đề tài hình cánh sen, hoa cúc cách điệu ở đầu các con rường vị trí tiếp giáp với phần mái. Trên xà hạ, ở vị trí gian giữa, phía trên bàn thờ, vị trí trang trọng nhất của ngôi đình được đặt bức đại tự nội dung (tối linh từ) các chữ này được đặt trong khuông hình chữ nhật, phía trên, dưới được chạm khắc hình rồng chắn mặt nguyệt bằng nghệ thuật chạm thủng, nét đục sâu, khối nổi với dáng vẻ uy nghiêm. Bên cạnh các mô típ tứ linh giữ vai trò chủ đạo với kích thước các bức chạm hầu như chiếm gần hết diện tích bề mặt kiến trúc, xen lẫn vào giữa hình tượng linh thiêng hoá (long, ly, quy, phượng) là những con vật gần gũi với đời sống của cư dân nông nghiệp như con cua, con rùa, con cá, con sóc v.v...Tất cả những hoạ tiết trang trí ở vì kèo, kẻ hiên, kẻ bẩy, bức đại tự chúng đều làm tăng thêm tính uyển chuyển, mềm mại, thể hiện nghệ thuật trang trí mang phong cách kiến trúc nghệ thuật triều Nguyễn, mang đậm màu sắc tôn giáo phù hợp với đời sống dân gian thể hiện cuộc sống no đủ của con người sống thời bấy giờ.
Hậu cung:
Từ nhà tiền đường đến hậu cung qua sân có chiều dài 4,85m, chiều rộng 2,15m, diện tích 10,42m2.
Hậu cung gồm 1 gian 2 vì gỗ, các vì này được làm bằng gỗ, kết cấu đơn giản, hệ thống cửa bướm nền lát gạch. Hậu cung có chiều dài nền nhà 4,85m, chiều rộng 4,50m với tổng diện tích là 21,8m, hiên rộng 1,3m, đòn tay rui mè được làm bằng gỗ, mái lợp ngói mũi hài.
Trước kia ở trong lòng hậu cung được đặt 3 hương án bằng gỗ có bài vị cắn thờ vị thần của làng những trải qua thời gian dài bị thất lạc mất. Nhân dân làng xây bệ thờ bằng xi măng có đặt các đồ thờ tam sự, ngũ sự, đài rượu, tàn lọng, môn.
Loại di tích:
Đình làng Mỹ Xuyên xã Vĩnh Yên, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá là di tích lịch sử văn hóa.
Các hiện vật trong di tích:
Lư hương đồng (mới) = 01 cái
Đèn đồng (mới) = 03 cái
Hạc đồng (mới) = 02 cái
Mâm bồng gỗ (cũ) = 04 cái
Bát hương gốm (mới) = 03 cái
Kiệu bát cống (cũ) = 01 cái